Sáng 5-5, tại tỉnh Tây Ninh diễn ra Hội nghị hội đồng điều phối Vùng Đông Nam Bộ lần thứ 3 và Công bố Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050. Dự hội nghị có Thủ tướng Phạm Minh Chính; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên; lãnh đạo các bộ, ngành và tỉnh, thành trong vùng.
Mở đầu hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh việc phê duyệt Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Hội nghị sẽ rà soát lại các công việc, đánh giá khó khăn, vướng mắc, cách khắc phục để đưa kinh tế vùng Đông Nam Bộ phát triển nhanh, bền vững. Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị bí thư, chủ tịch UBND các tỉnh Vùng Đông Nam Bộ tiến hành thảo luận, cho ý kiến 1 số nội dung quan trọng và lấy ý kiến của các nhà khoa học để xem xét triển khai.
Thủ tướng gợi ý các đại biểu cần thảo luận liên quan đến nội dung quy hoạch, trong đó lưu ý nhóm giải pháp nào? Các vấn đề khó khăn, thách thức, kiến nghị, tháo gỡ, nguồn lực, nhân lực tài chính. Nhiệm vụ trọng tâm cần giao Vùng Đông Nam Bộ thực hiện quy hoạch. Công tác phối hợp nội dung giữa các bộ, ngành với các địa phương.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ký Quyết định 370/QĐ-TTg ngày 4-5-2024 phê duyệt quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phạm vi ranh giới quy hoạch Vùng này bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính của TP HCM và 5 tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Tây Ninh.
Đông Nam Bộ là đầu tàu về kinh tế số, xã hội số, trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ của cả nước; là trung tâm tài chính quốc tế, nơi tập trung của các định chế tài chính quốc tế, có vị thế nổi trội trong khu vực Đông Nam Á và phát triển ngang tầm các thành phố lớn trong khu vực châu Á.
Mục tiêu quy hoạch đến năm 2030, Đông Nam Bộ trở thành vùng văn minh, hiện đại, công nghiệp phát triển, đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo, y tế, phát triển kinh tế xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ chiếm khoảng 41% – 42% trong GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng 45% – 46% (riêng công nghiệp chế biến, chế tạo khoảng 33%); khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2% – 3%…
Về xã hội, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8. Tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt khoảng 40% – 45%; tỉ lệ thất nghiệp duy trì ở mức dưới 3%…
Đến năm 2050, Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển, có thu nhập cao; có tiềm lực kinh tế mạnh, cơ cấu kinh tế hiện đại; trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế thuộc nhóm hàng đầu của khu vực và thế giới; có kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2031 – 2050 đạt khoảng 7,5%/năm, GRDP/người đến năm 2050 đạt khoảng 54.000 USD.
Đông Nam Bộ sẽ đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo đột phá nâng cao năng suất dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển một số ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại trở thành các động lực tăng trưởng mới như công nghiệp bán dẫn, sản xuất chip, dịch vụ tài chính (gắn với hình thành trung tâm tài chính quốc tế), logistics.
Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế, trong đó ưu tiên hành lang kinh tế Bắc – Nam, hành lang kinh tế Mộc Bài – TP HCM – Biên Hòa – Vũng Tàu và các vành đai công nghiệp – đô thị – dịch vụ gắn với đường Vành đai 3, Vành đai 4 TP HCM; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế và làm cơ sở để tổ chức lại không gian phát triển vùng.