Sáng ngày 06/10/2025, tại Hà Nội, Cục Thống kê tổ chức Họp báo công bố số liệu thống kê tình hình kinh tế – xã hội Quý III và 9 tháng năm 2025. Cục trưởng Cục Thống kê Nguyễn Thị Hương chủ trì Họp báo. Họp báo được kết nối trực tuyến với Thống kê các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Chỉ tiêu KT-XH đạt nhiều điểm sáng tích cực
Tại buổi Họp báo, Cục trưởng Cục Thống kê Nguyễn Thị Hương cho biết, tại thời điểm tháng 9/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 của Việt Nam đạt 6,6%; Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 của Việt Nam đạt 6,5%. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 của Việt Nam đạt 6,7%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 4/2025; “Đây cũng là mức dự báo tăng trưởng cho quốc gia cao nhất trong khu vực” – Cục trưởng Cục Thống kê nhấn mạnh.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2025 ước tính tăng 8,23% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 14,38% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn từ năm 2011-2025; GDP chín tháng năm 2025 ước tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 9,44% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011-2025. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,69%, đóng góp 43,05%; khu vực dịch vụ tăng 8,49%, đóng góp 51,59%.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng cao, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung của toàn ngành kinh tế. Các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất phục vụ xuất khẩu hàng hóa trước khi Hoa Kỳ áp dụng mức thuế quan cao hơn, hoạt động khai khoáng, sản xuất điện tích cực hơn trong những tháng gần đây. Qua đó, góp phần làm giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp chín tháng năm 2025 tăng 8,55% so với cùng kỳ năm trước và đóng góp 35,06% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III/2025 ước tăng 10,0% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp tính chung chín tháng năm 2025 ước tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,4%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2020 đến nay.

Nghị quyết 68-NQ/TW-đòn bẩy tích cực cho thành lập doanh nghiệp mới
Thông tin tại buổi Họp báo, bà Nguyễn Thị Hương cũng cho biết, cả nước có 86,4 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 41,3% so với cùng kỳ năm 2024), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong chín tháng năm 2025 lên hơn 231,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân một tháng có 25,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, cao hơn mức bình quân một tháng có 19,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, du lịch trong nước tăng, đặc biệt trong các sự kiện kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của khách quốc tế đến Việt Nam đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ trong chín tháng năm nay. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ chín tháng năm 2025 tăng 8,49% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 11,37% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011-2025. Tính chung chín tháng năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.176,0 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,2%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/9/2025 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,54 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 1.092 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 11,32 tỷ USD, tăng 48,0% so với cùng kỳ năm trước. “Tức là các doanh nghiệp đang hiện hữu ở Việt Nam, đang sản xuất, có sản phẩm đã mở rộng vốn. Vốn này sẽ vào ngay trong nền kinh tế. Đây là một con số mà trong nội hàm của vốn đầu tư có ý nghĩa tích cực” – Cục trưởng Cục Thống kê nhận định.
Về xuất nhập khẩu hàng hóa, tính chung chín tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 680,66 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16,0%; nhập khẩu tăng 18,8%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 16,82 tỷ USD; cán cân thương mại dịch vụ chín tháng năm 2025 nhập siêu 8,3 tỷ USD.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng 0,42% so với tháng trước, tăng 2,61% so với tháng 12/2024, tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân quý III/2025 tăng 3,27% so với quý III/2024. Bình quân chín tháng năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,19%.

Ba tháng cuối năm cần triển khai 06 giải pháp trọng tâm
Nhận định chung về kết kết quả tăng trưởng tích cực của quý III và chín tháng năm 2025, bà Nguyễn Thị Hương đánh giá, ba tháng cuối năm, kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động không nhỏ từ các biến động về kinh tế, chính trị, dịch bệnh, thiên tai khó dự báo. “Do đó, để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2025 theo mục tiêu đề ra là thách thức lớn, cần sự chung sức, đồng lòng, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, của Chính phủ, doanh nghiệp, nhân dân cả nước và sự ủng hộ, hỗ trợ của bạn bè quốc tế” – bà Nguyễn Thị Hương chia sẻ.
Để thực hiện được mục tiêu này, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Liên tục cập nhật các kịch bản về tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, hài hòa các chính sách tài khóa, tiền tệ điều hành kinh tế vĩ mô nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế.
Hai là, có giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, kịp thời hơn để tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công trong những tháng cuối năm 2025, đặc biệt các dự án quan trọng quốc gia; quyết liệt, khẩn trương có giải pháp tháo gỡ vướng mắc, xử lý dứt điểm các dự án tồn đọng kéo dài, không để lãng phí nguồn lực của đất nước, góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội . Có chính sách ưu đãi, cạnh tranh, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi để thu hút các dự án lớn, dự án công nghệ cao.
Ba là, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm các ngành công nghiệp, dịch vụ có lợi thế dựa trên đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại và phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường, tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp để khơi thông thị trường trong nước; đẩy mạnh Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là đối với các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh và sang các thị trường lớn, tiềm năng.
Bốn là, tăng cường giám sát dịch bệnh và kiểm soát hoạt động chăn nuôi, giết mổ, tiêu thụ để bảo đảm an toàn dịch bệnh và thực phẩm. Đồng thời cần chú trọng ứng dụng khoa học công nghệ trong chăn nuôi, phát triển mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, mở rộng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, đẩy mạnh tái đàn có kiểm soát, bảo đảm nguồn cung ổn định và hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao giá trị gia tăng.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức xúc tiến, quảng bá du lịch; có các giải pháp đột phá, liên tục làm mới sản phẩm, tập trung nghiên cứu kỹ thị trường, đặc biệt là những thị trường mới, có nhiều tiềm năng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách du lịch, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Sáu là, thực hiện có hiệu quả và kịp thời các chính sách an sinh xã hội; trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các ngành, lĩnh vực công nghiệp mới. Tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh; chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở.
vi
en